Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Sự cấp thiết ra đời Luật Dân số: Quy định về nạo, mới thêm phá thai còn lỏng lẻo.

Trong các văn bản như Nghị định 104/NĐ-CP, Luật đồng đẳng giới 2006, các văn bản của Bộ Y tế, Tổng cục DS-KHHGĐ, cũng quy định các hành vi xác định giới tính thai nhi và phá thai vì lý do chọn lọc giới tính… Những quy định này dẫn đến việc không ít ý kiến cho rằng: Sự phổ thông rộng rãi của dịch vụ phá thai và sự dễ dàng của thủ tục phá thai đã lý giải tại sao phá thai vẫn còn phổ biến, trong khi tỷ lệ dùng các biện pháp tránh thai vẫn không ngừng tăng lên

Sự cần thiết ra đời Luật Dân số: Quy định về nạo, phá thai còn lỏng lẻo

Yêu cầu về nạo thai, phá thai: Các cơ sở y tế chuyên khoa phải thực hiện các đề nghị của đàn bà về đặt và tháo công cụ tử cung, hút điều hòa kinh nguyệt, nạo phá thai theo ước vọng từng người.

Nghiêm cấm các cơ sở y tế và cá nhân chủ nghĩa làm các thủ thuật nạo thai, phá thai, tháo vòng tránh thai nếu không có giấy phép do Bộ Y tế hoặc Sở Y tế cấp”.

Một số văn bản khác cũng chỉ mới là chỉ dẫn quy trình chuyên môn kỹ thuật cho các dịch vụ coi sóc sức khỏe sinh sản nói chung và các kỹ thuật phá thai đối với từng tuyến. Ảnh: D. “Có những quy định đã tạo cho Nhân viên y tế và khách hàng tiếp cận dịch vụ một cách quá dễ dàng: Khách hàng không cần bất kỳ một loại giấy má nào, kể cả giấy tùy thân là chứng minh dân chúng, trong khi người cung cấp dịch vụ lại có chế độ phụ cấp giải phẫu, như vậy sẽ có tác dụng ngược chiều”, ông Nguyễn Văn Tân – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ nêu quan điểm.

Thực tế cho thấy việc nạo, phá thai trong rất nhiều trường hợp đã gây những hậu quả nghiêm trọng, nhiều trường hợp dẫn đến vô cơ, hay có thể bị mất mạng trong quá trình nạo, phá thai nhưng việc xử lý này rất hạn chế”, ông Đinh Công Thoan – Nguyên Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Tổng cục DS-KHHGĐ), thành viên ban soạn thảo, tổ biên tập Dự án Luật Dân số san sớt.

Luật này đã chú trọng đến quyền tự do lựa chọn và tiếp cận dịch vụ y tế của từng người dân, nhằm bảo đảm quyền chọn lọc của đàn bà và tôn trọng quyết định của họ khi có thai ngoài ý muốn. Tác dụng ngược chiều của sự lỏng lẻo  Đến nay, văn bản can hệ có chế tài nghiêm khắc nhất là Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Hoặc Pháp lệnh số 06/2003/PL-UBTVQH11 về Dân số có quy định tại Điều 7.

Nhân viên y tế huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên khám thai, tham mưu kiến thức chăm sóc SKSS cho người dân. (2). Dù rằng nạo, hút thai trong những năm gần đây đã giảm nhưng đây vẫn đang là thực trạng nhức nhói trong coi ngó SKSS, đòi hỏi chúng ta không được né tránh mà cần phải tập hợp giải quyết. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

(3). # Năm 1989 nêu rõ: “phụ nữ được quyền nạo thai, phá thai theo hoài vọng… Nghiêm cấm các cơ sở y tế và cá nhân làm các thủ thuật, phá thai, tháo vòng tránh thai nếu không có giấy phép do Bộ Y tế hoặc Sở Y tế cấp”.

Các hành vi bị ngăn cấm: ngăn trở, cưỡng hiếp việc thực hành kế hoạch hóa gia đình; chọn lọc giới tính thai nhi dưới mọi hình thức. Đây là Nghị định ban hành từ năm 1991 đến nay vẫn còn có hiệu lực thi hành.

Người nào thực hiện việc phá thai trái phép cho người khác gây thiệt hại cho tính mệnh hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người đó hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam cầm đến ba năm hoặc bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

Hay tại Khoản 3 Điều 11, Thông tư số 01/2004/TT-BYT chỉ dẫn về hành nghề y dược tư nhân có một số quy định về điều kiện chung: Có đạo đức nghề; tại Khoản 5 cùng Điều này: Có văn bản cam kết hiểu và thực hiện Luật Bảo vệ sức khỏe quần chúng, Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân, các chương trình y tế quốc gia phổ cập, các quy định về chuyên môn kỹ thuật y tế và các văn bản quy phạm pháp luật khác về y tế có hệ trọng.

Cụ thể tại Chương 9 bảo vệ sức khỏe đàn bà và trẻ mỏ Điều 32 có quy định: “Điều 32. Trong 4 yếu tố trên thì nguyên tố quan yếu nhất tác động đến nạo, phá thai là những quy định của luật pháp. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhận chức phận, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Rõ ràng, hai khoản quy định trong điều này khá chung chung và trên thực tại cho thấy rất nhiều trường hợp nạo, phá thai trái với quy định pháp luật. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. Tại Khoản 2, Điều 7 của Pháp lệnh Dân số năm 2003 ngăn cấm “chọn lọc giới tính thai nhi dưới mọi hình thức”. # 1989, Bộ Y tế và các ngành can hệ đã ban hành nhiều quyết định, hướng dẫn quốc gia…về chăm sóc SKSS/KHHGĐ.

“Tuy Bộ luật Hình sự đã quy định việc xử lý hình sự đối với việc nạo, phá thai trái phép nhưng chúng tôi lại không tìm thấy bất kì một văn bản chỉ dẫn nào cho quy định này. Đây đích thực là một vấn đề khó vì mọi biện pháp đều phải để ý đến nguyên tắc: coi trọng quyền sinh sản, bảo đảm quyền chọn lọc của các cặp vợ chồng.

N     Văn bản luật pháp quy định còn chưa chém đẹp  Điều 4- Luật Bảo vệ sức khỏe quần chúng. Vừa hạ thấp tỷ lệ nạo, hút thai, song song phải bảo đảm chất lượng và an toàn tuyệt đối cho người dùng các biện pháp tránh thai. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực dân số, y tế, có nhiều yếu tố tác động đến nạo, hút thai, nhưng có thể quy về 4 yếu tố chính: Quy định của luật pháp; do bệnh tật; do sử dụng biện pháp tránh thai thất bại; lối sống.

Vấn đề này khiến cho người đọc không thể nắm bắt được và người ứng dụng luật thì không rõ để truy tố, xét xử hay định khung cho tội này.

Thu Nguyên. Cùng với Luật Bảo vệ sức khỏe quần chúng. (4). Tỉ dụ: Nghị định số 23/HĐBT năm 1991 ban hành 5 điều lệ về khám chữa bệnh bằng thuốc y khoa cựu truyền dân tộc, điều lệ vệ sinh khám chữa bệnh và hồi phục chức năng và thanh tra nhà nước về y tế.

Điều 243 Bộ luật này quy định: Tội phá thai trái phép: (1). Các bệnh viện chuyên khoa phụ sản, bệnh viên đa khoa tỉnh, thành thị mới được quyền phá thai bệnh lý, phá thai to.